“Thuần hóa” rau rừng thành rau nhà là xu hướng khó tránh khỏi. Câu chuyện giờ đây là cách ứng xử, thực thi quy trình thế nào cho nhuần nhị, hiệu quả, để vừa nâng tầm cây rau hoang dã, vừa duy trì được những ưu điểm đặc sắc từ thiên nhiên.
Hiện có nhiều người đưa những loại cây rau hoang dã, rau rừng về trồng ở thành thị. Các loại rau rừng, rau dại, rau bản địa, từ rau sam, rau ngót rừng, đến những loại như đọt mây, rau dớn, lá giang… được thành thị hóa, thành cây rau vườn nhà.

Liệu những loại rau này có bị suy giảm chất lượng, thay đổi đặc tính khi sinh cảnh bị di dời. Việc đưa chúng vào môi trường đô thị có nhiều ưu điểm, nhưng cũng tiềm ẩn nhiều thách thức về sinh thái và cả văn hóa.
Cây rau hoang dã “hiền” hơn
Khi cây rau hoang dã được đưa khỏi môi trường bản địa, nó bị nhiều yếu tố tác động. Về mặt sinh thái, rau rừng vốn quen ánh sáng tán xạ, đất nghèo dinh dưỡng, độ ẩm và vi sinh vật đặc trưng. Ở môi trường đô thị, trong nền tảng đất thịt, phân bón hóa học, ô nhiễm không khí, thiếu vi sinh bản địa, hệ vi sinh rễ của rau rừng bị thay đổi, dẫn đến biến đổi về hương vị, cấu trúc lá, hàm lượng tinh dầu, hoạt chất sinh học.
Rời môi trường tự nhiên, rau dại bị giảm áp lực tiến hóa. Khi còn ở trong rừng, cây rau hoang tự trang bị bằng các hợp chất đắng, chát, thơm, cay – những thứ làm nên cá tính của chúng. Khi đưa về trồng trong điều kiện được con người chăm bón, không sâu bệnh, những hợp chất này giảm dần, khiến rau “hiền” hơn, nhưng đồng thời cũng mất đi nét đặc trưng.
Sau vài thế hệ được nhân giống chọn lọc trong môi trường đô thị, yếu tố di truyền của cây rau rừng có thể chuyển biến. Chẳng hạn, cây chủ động cho ra giống mềm, nhanh lớn hơn, nhưng cũng kém sức chịu đựng, hương vị suy giảm. Thực tế, như rau húng quế, rau mùi tàu, khi trồng công nghiệp thì không còn thơm nồng như loại mọc ngoài tự nhiên.

Ứng xử phù hợp tùy loại rau
Không ai cản trở được xu hướng đưa rau rừng thành rau nhà. Nhưng có thể, không nhất thiết rau nào cũng phù hợp để đưa về phố, mà mỗi loài nên được cân nhắc ứng xử phù hợp.
Có thể đưa về những loại rau có khả năng thích nghi cao, ít phụ thuộc vào hệ sinh thái phức tạp. Chẳng hạn, rau sam, rau càng cua, rau diếp cá, rau ngót rừng… Những loại rau này có thể sống tốt trong chậu, trên sân thượng, ngoài vườn nhà mà vẫn duy trì được phần lớn đặc tính.
Nên giữ ngoài tự nhiên hoặc trồng mô phỏng sinh cảnh đối với những loài rau đặc hữu, có quan hệ chặt chẽ với môi trường bản địa. Chẳng hạn, những loại rau phụ thuộc vào đất rừng, độ ẩm, tán cây, vi sinh vật như rau dớn, lá bép, đọt mây… có thể bảo tồn và khai thác có kiểm soát tại nguồn, thay vì dời đi hoàn toàn. Nếu có điều kiện, có thể lập vườn mô phỏng sinh thái (eco-garden) ở đô thị để vừa trồng, vừa bảo tồn đặc điểm tự nhiên.
“Thuần hóa” nhuần nhị rau rừng
Nếu vẫn muốn đưa rau rừng về trồng vườn nhà, cần có ứng xử nhuần nhị, một quy trình thuần hóa bài bản.
Theo người có kinh nghiệm, trước hết cần tìm hiểu kỹ về sinh thái bản địa của loài cây rau dại mà mình muốn đưa đi. Những yếu tố lưu ý như điều kiện tự nhiên nơi rau đó mọc tốt nhất, độ pH đất, độ ẩm, lượng nắng, cộng sinh vi sinh, loại lá mục…

Bước đầu, tạo mô phỏng môi trường gần gũi nhất có thể đối với loài rau quen sống ở rừng. Dùng đất trộn lá mục, phân hữu cơ, giữ độ ẩm tự nhiên, trồng xen cây cao để che nắng, hạn chế phân hóa học.
Đừng nóng vội, ép thuần hóa quá nhanh mà hãy nhân giống từng bước. Nếu cẩn trọng, nên duy trì cây giống gốc từ rừng bên cạnh giống trồng ở đô thị. Khi đó, người trồng có dữ liệu để so sánh đặc tính, hương vị, chọn lọc tự nhiên qua vài mùa. Nếu có thời gian và chuyên nghiệp hơn, nên ghi chép, quan sát những thay đổi về sinh trưởng, hương vị, năng suất.
Trồng rau hoang, kể câu chuyện rau sạch
Quan trọng nhất, khi đưa rau rừng vào không gian thành thị, đừng chỉ coi đó là rau sạch, mà còn là câu chuyện kể về nguồn gốc, môi trường, tập tính, để người dùng hiểu và trân trọng hơn cây rau mà mình đang thưởng thức.
Đưa rau rừng về phố là ý tưởng không dở. Chỉ cần nhắc nhớ nhau rằng chúng ta đang chuyển đổi sinh cảnh của không chỉ một cây rau dại bất kỳ nào đó ngoài kia, mà còn là tác động vào một phần hệ sinh thái.
Động thái thuần hóa có thể giúp rau hoang trở nên gần gũi, phổ biến hơn, nhưng nếu thiếu sự tinh tế, nhất là về khía cạnh sinh thái, sẽ làm mất cái hồn rừng, phong vị tự nhiên của cây rau.
Lý tưởng nhất là vừa trồng trọt, chăm bón rau rừng trong đô thị, vừa bảo tồn rau dại ngoài tự nhiên, tạo ra hai chiều liên hệ nhuần nhị. Phố học rừng, và rừng cũng được tôn trọng bởi phố.

